TÍNH ĐA HỢP TRONG KIẾN TRÚC

Ths.KTS Nguyễn Khanh Toàn

“…kiến trúc được tạo nên không chỉ là một cái “vỏ” vật chất cho các mục tiêu sử dụng, mà cái “vỏ” vật chất ấy còn phải là nơi tàng trữ, tiềm ẩn các thông tin, tín hiệu văn hóa hoặc tâm linh, ước vọng của các dân tộc, của các nền văn hóa”
Lê Thanh Sơn,
Kiến trúc & hiện tượng cộng sinh văn hóa,
1999
…Từ cấu trúc bản thể
Kiến trúc thế giới trải qua bao biến động mạnh mẽ nhằm tìm ra chân giá trị với vô vàn những tranh biện từ lý luận cho đến thực hành. Những tranh biện ấy không nằm ngoài mục đích kiến giải cho vấn đề kiến trúc là gì hay bản thể của kiến trúc là gì nhằm tạo cơ sở cho thực hành kiến trúc. Bởi vì “khi tạo ra bất kỳ đối tượng cấu trúc nào con người đều khao khát không chỉ đạt lợi ích hiệu quả cụ thể, mà còn mong đạt tới một hiệu quả thứ cấp làm cho tri giác và nhận thức trở nên rõ ràng”[7]“kiến trúc và nghệ thuật ứng dụng ảnh hưởng hàng ngày tới việc hình thành thị hiếu thẩm mỹ…(nó) giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, là những nhân tố tác động liên tục đối với sự phát triển thẩm mỹ - nghệ thuật của chúng ta”[2]. Qua đó, cho thấy giữa kiến trúc và con người luôn có sự tương tác thường xuyên và liên tục; con người tạo ra kiến trúc nhằm đáp ứng cho nhu cầu và thị hiếu của mình, và ngay khi đó, kiến trúc lại tác động đến chính nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ của con người. Tuy nhiên, mỗi tác giả, mỗi trào lưu, mỗi giai đoạn,…có một cách luận giải và quan niệm khác nhau tạo nên một bức tranh đa sắc cho kiến trúc trong tiến trình phát triển, dần tiệm cận đến giá trị và bản chất.
Khách quan mà nói thì kiến trúc phụ thuộc vào các yếu tố như nhu cầu sử dụng, quan niệm thẩm mỹ của con người, trình độ kỹ thuật xây dựng, vật liệu kiến tạo,…Đấy là những yếu tố mà ta có thể liệt kê được khi nói về kiến trúc. Tuy nhiên, trong nghiên cứu lý luận thì rất cần một cơ sở khoa học mang tính cấu trúc nhằm tạo nên phương thức tiếp cận dễ dàng trong nhận định, đánh giá giá trị từ sự tương tác của các yếu tố.
Trong “Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu”, Cao Xuân Huy có cách nhìn sự vật toàn cục một cách rất biện chứng bằng phương thức chủ toàn, mà theo đó,“toàn thể quyết định bộ phận; toàn thể không phải chỉ là tổng số của bộ phận, nghĩa là các bộ phận cộng lại không nói hết được cái nội dung của toàn thể - đặc tính của một bộ phận bị quyết định bởi quan hệ của nó đối với toàn thể và đối với các bộ phận khác”[1]. Với cấu trúc kiến trúc, ta có thể luận giải các quan hệ của nó theo cái nhìn toàn diện này. Đây là điều cần thiết, bởi chỉ như vậy mới nhận thấy hết mối tương quan phức tạp của nó trong sự thống nhất các quan hệ cấu thành bộc lộ qua cái hình hài vật lý thông thường kia. Xét ở cả hai mặt, hình thức và nội dung, ta nhận ra các yếu tố tác động cụ thể làm định hình kiến trúc. Về hình thức, trong cảm nhận thị giác ban đầu khi tiếp xúc với công trình, ta có thể nhận ra các yếu tố như màu sắc, chất liệu, cấu trúc hình khối, hình thức cấu kiện tổ hợp, kết cấu,…tác động làm định hình công trình. Những yếu tố biểu đạt trực quan này định hình nên cái vỏ mang đặc trưng sắc thái của từng công trình tạo nên tính biểu cảm trong nhận thức của con người về lý tính của cấu trúc vật thể. Ở đây thể hiện tất cả những tính chất hình học, sự biểu cảm chất liệu, sự tương quan tỷ xích,…của cấu trúc mà kiến trúc sư luôn phải tương tác và suy nghĩ ngay trong quan điểm, lý luận, thực hành thiết kế. Về nội dung, ta nhận ra những giá trị ẩn tàng qua sự dung hợp, gắn kết trên hình thức cấu trúc đó như nhu cầu công năng sử dụng, công năng tinh thần, tín ngưỡng, giá trị lịch sử, đặc trưng bản địa, tính thời đại,…đã làm nên đặc tính văn hóa, đặc trưng thể loại cùng sự đúc kết giá trị mà ta gọi là bản sắc và tinh thần thời đại. Và tất cả các yếu tố này, ở cả hình thức và nội dung, luôn đan cài, hỗn dung, thống nhất trong suốt quá trình tồn tại của công trình kiến trúc. Điều quan trọng, đó không phải là sự cộng gộp của các yếu tố, mà nó dung hợp một cách biện chứng làm định hình thực thể kiến trúc mang tính nhân văn trong “đối thoại” với cuộc sống con người. Nói như Trương Quang Thao thì các yếu tố ấy không phải “ở tư thế cái này cộng với cái kia, cái này ở trong cái kia mà cái này vừa là cái kia. Hiện tượng này được Venturi phát hiện và gọi đó là hiện tượng nhập nhằng (ambiguity), nước đôi (equivocity), hay vừa là-vừa là (both-and)”[6] hoặc như Lê Thanh Sơn thì “kiến trúc được tạo nên không chỉ là một cái “vỏ” vật chất cho các mục tiêu sử dụng, mà cái “vỏ”vật chất ấy còn phải là nơi tàng trữ, tiềm ẩn các thông tin, tín hiệu văn hóa hoặc tâm linh, ước vọng của các dân tộc, của các nền văn hóa”[4]. Bởi nó không chỉ thể hiện bản chất thông thường của một cấu trúc vật chất mà còn dung hợp cấu trúc tinh thần hòa nhập vào cuộc sống; chính điều này làm cho kiến trúc thực sự trở nên sinh động, thiết yếu, gần gũi và nhân văn trong tương tác với đời sống xã hội của con người.
Rõ ràng kiến trúc cũng như văn hóa hay kiến trúc cũng là văn hóa, đều là sản phẩm của quá trình hoạt động sáng tạo có ý thức của con người trong tiến trình phát triển. Rồi cũng tùy thuộc vào nhu cầu và đặc trưng trong quan niệm về vũ trụ quan, thế giới quan ở từng vùng miền, từng khu vực khác nhau cùng với những chất liệu kiến tạo địa phương, trình độ kỹ thuật xây dựng mà hình thành nên những kiểu thức kiến trúc khác nhau đáp ứng nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ của con người. Điều này đã được minh chứng trong tiến trình lịch sử kiến trúc thế giới. Cũng chính vì thế mà kiến trúc không thể là cấu trúc có giá trị mang tính quốc tế như Chủ nghĩa Kiến trúc Hiện đại từng cổ súy để rồi phải lâm vào khủng hoảng vào nửa cuối thế kỷ XX – một ví dụ cho sự phát triển áp đặt, không theo quy luật. Ngược lại, kiến trúc phải là cấu trúc giá trị mang tính đặc trưng của từng vùng miền, từng khu vực. Tất nhiên luôn có những “va chạm”, ảnh hưởng, tiếp biến và ngay cả lấn át trong quá trình tiếp xúc giữa các nền văn hóa với nhau trong sự phát triển của kiến trúc. Những “va chạm” này tạo nên sự đa dạng cho kiến trúc và là điều kiện cần thiết để cho những yếu tố đặc trưng nhất của kiến trúc ở mỗi vùng miền, mỗi dân tộc được biểu hiện, bộc lộ rõ nét. Tính chất và sự tương tác này tạo nên giá trị bản sắc trong kiến trúc của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc mà ngày nay ta luôn kêu gọi gìn giữ trong thời kỳ hội nhập.
Theo hướng tiếp cận đó, ta thấy rằng kiến trúc rõ ràng là cấu trúc được định hình từ sự dung hợp, tương tác của hai nhân tố vật thểgiá trị phi vật thể. Trong nhân tố vật thể, kiến trúc biểu đạt bằng những đặc trưng hình học, tính chất vật lý của chất liệu kiến tạo, sự biểu cảm của màu sắc, kích thước, cấu trúc hình học,…làm định hình công trình mà ta có thể gọi chung vật thể vật lý. Song song đó, những giá trị phi vật thể được con người cài đặt, gửi gắm vào tạo nên “tiếng nói” của công trình nằm ở những giá trị tinh thần và những tác động mang tính xã hội như đã nói ở trên. Cấu trúc Vật lý – Tinh thần – Xã hội này luôn tương tác lẫn nhau tạo nên kiến trúc và giá trị của kiến trúc.  
Như vậy, sự hỗn dung các quan hệ của kiến trúc là điều hiển nhiên, nó là bản chất của kiến trúc, là điều làm nên giá trị cho công trình. Nó là sản phẩm sáng tạo của con người, là cấu trúc vật thể phục vụ cho nhu cầu ở, đối phó với những tác động từ tự nhiên của con người; đồng thời, nó phản ánh nhận thức xã hội nên, một cách tổng quan hơn, nó chính là sản phẩm của xã hội. Và trong sự sáng tạo đó, con người lại đan cài những ý nghĩa tinh thần nhằm thể hiện những ý niệm trong nhận thức của mình về cuộc sống. Cụ thể, kiến trúc là sự hỗn dung của cấu trúc tam nguyên Vật lý - Tinh thần - Xã hội hay ở cấp độ tổng quan hơn nó được cấu thành từ sự tương tác của hai nhân tố vật thểgiá trị phi vật thể. Tất cả các yếu tố này cùng song song tồn tại và luôn tương tác lẫn nhau làm định hình kiến trúc. Vậy, với sự biểu hiện bản chất đó, ta thấy rằng kiến trúc là một thực thể đa hợp.

Đến những tranh biện mang quan điểm cá nhân…
Các lý luận mang tính nhận định về bản thể của kiến trúc được nhiều kiến trúc sư phát biểu và thể nghiệm trong thực hành kiến trúc của mình làm nên những ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ đến lý luận cũng như “diện mạo” của nền kiến trúc thế giới. Trong đó, tính đa hợp được nhìn nhận như là bản chất của vấn đề với nhiều phát biểu mang tính cá nhân của mỗi kiến trúc sư ở từng góc độ khác nhau.
Đó là sự phát hiện của Robert Venturi về biểu hiện “vừa là…vừa là” (both…and) trong kiến trúc xuất phát từ cái nhìn đối lại quan điểm của Chủ nghĩa Hiện đại “chỉ là…chỉ là” (either…or). Với ông, kiến trúc bao hàm nhiều sự “phức tạp và mâu thuẫn” bởi những tương tác với nhu cầu của cuộc sống. Ở đó, nó không “thuần khiết”, “chỉ là” như quan điểm của Chủ nghĩa Hiện đại mà nó phải “bao gồm”, “vừa là” trong mối tương quan với các khía cạnh như kỹ thuật, văn hóa - xã hội, lịch sử, nhận thức, quan niệm…như là những gì thuộc về bản chất của cuộc sống. Nói cách khác kiến trúc là một thể đa hợp trong sự hợp nhất của nhiều yếu tố cấu thành, chứ không là một thể đơn nhất được tạo ra bởi tính “loại trừ” triệt để như Kiến trúc Hiện đại.
Ở một phát biểu khác, Kenzo Tange đưa ra chủ thuyết của mình qua tam nguyên “Công năng - Kết cấu - Biểu tượng”. Có thể nói ông đã nhận ra những giá trị thuộc về bản thể của kiến trúc và biểu hiện của nó trong quá trình tương tác với nhu cầu cuộc sống của con người cả về công năng sử dụng lẫn những giá trị ở chiều sâu văn hóa tinh thần. Yếu tố Biểu tượng có thể nói là một quan niệm mà Kenzo Tange đã nhìn nhận ra và đưa kiến trúc dần trở về đúng bản chất vốn có của nó. Ở đó, nó mang những giá trị thiết thực từ nhu cầu của cuộc sống trong quá trình thích ứng với tự nhiên mà dần định hình nên; đồng thời, đó là những nét riêng và đặc trưng nhất của từng cộng đồng, dân tộc trong “văn hóa ở”“nghệ thuật cư trú”. Biểu tượng mà Kenzo Tange đề cập đến chính những giá trị đặc trưng truyền thống luôn gắn kết và biểu hiện trong kiến trúc hôm nay. Một cách chung nhất, ta nhận ra kiến trúc phải là một thể đa hợp trong tương tác với cuộc sống của con người; nó chuyển tải song song cùng lúc những giá trị của thời đại lẫn những nhân tố truyền thống đặc trưng của từng dân tộc.
Hay trong lý luận của mình, Kisho Kurokawa lại đề cập đến vấn đề Cộng sinh văn hóa trong kiến trúc bao gồm sự cộng sinh “giữa Đông và Tây, giữa quá khứ và hiện tại và giữa các nền văn hóa với nhau” mà biểu hiện cụ thể là “thừa nhận” sự cùng tồn tại, cùng “sống chung” của các yếu tố văn hóa trong công trình kiến trúc[3]. Ông chủ trương kiến trúc không nên quá rõ ràng về không gian mà phải “tạo ở đấy những yếu tố nhập nhằng và tối nghĩa”[5]. Trong đó, có thể thấy với Kurokawa thì kiến trúc là một thể cộng sinh của nhiều yếu tố bao gồm những yếu tố cơ bản cấu thành thuộc về kỹ thuật, vật liệu,…và đặc biệt là các yếu tố văn hóa cùng dung hợp trong công trình.
Hoặc với Lê Thanh Sơn, trong Luận án tiến sĩ, năm 2000, lại có cái nhìn kiến trúc từ góc độ hỗn dung của ba vật thể Vật lý - Tinh thần - Xã hội. Và đó là các khía cạnh mà chủ thể kiến trúc thể hiện những liên hệ tương tác hoặc biểu hiện ở bản chất của nó. Sự phân tách ba vật thể ở đây nhằm mục đích phân tích và nhận xét thấu đáo vấn đề trong các mối tương quan giữa chúng với kiến trúc; nhưng thực chất, ba vật thể này cùng song song tồn tại và tương tác bổ sung một cách biện chứng trong kiến trúc nói chung và trên thực thể mặt đứng công trình nói riêng. Có thể nói, với cách tiếp cận này, Lê Thanh Sơn đã đưa ra được một phương thức nhìn nhận và phân tích cặn kẽ vấn đề thuộc về bản thể của nghệ thuật kiến trúc dựa trên sự tương tác của ba vật thể. Bằng cách đó, có thể giúp cho chúng ta có một cơ sở vững chắc và một cái nhìn rõ ràng mang tính hệ thống trong lý luận lẫn thực hành. Hơn hết, ta nhận ra rằng, nghệ thuật kiến trúc nói chung và thực thể mặt đứng công trình nói riêng là một thể đa hợp được cấu thành từ sự tương tác của cấu trúc Vật lý - Tinh thần - Xã hội.
Rõ ràng, các tác giả trên dù có những phát biểu và cách nhìn vấn đề ở các góc độ khác nhau nhưng vẫn cho thấy bản chất của kiến trúc là một thể đa hợp. Đó là sự hỗn dung các yếu tố vật thể lẫn phi vật thể trong cùng một công trình làm nên những giá trị đặc trưng, riêng biệt và đa dạng vô cùng cho nghệ thuật kiến trúc. Các yếu tố vật thể là những thành tố cơ bản cấu thành nên công trình mang dấu ấn của sự phát triển, những giá trị và trình độ nhận thức đương thời; đồng thời, các yếu tố phi vật thể góp phần làm nên giá trị bản sắc đặc trưng, riêng biệt của từng cộng đồng hay khu vực,…Đó là những giá trị mà kiến trúc chuyển tải, biểu đạt như là những gì thuộc về bản thể của nó.

Và những minh chứng trực quan từ thực tiễn…
Trong tiến trình phát triển, kiến trúc luôn được định hình bởi sự tương tác, chi phối của nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là các yếu tố như nhu cầu sử dụng, quan niệm thẩm mỹ, vật liệu, kỹ thuật xây dựng,…mà chúng ta đã biện giải và đúc kết được thành cấu trúc lưỡng hợp Vật thể - Phi vật thể cùng bản chất dung hợp qua tam nguyên Vật lý – Tinh thần – Xã hội ở trên. Tất cả chúng luôn tương tác lẫn nhau trong suốt quá trình tồn tại làm cho công trình hiện hữu trong đời sống con người là một cấu trúc có bản chất đa hợp.
Hình 1. Đấu trường Colosseum
Ví như đấu trường Colosseum (Hình 1), khoảng 70-72 SCN, sự biểu trưng của người La mã đương thời. Cái “diện mạo” đồ sộ, hoành tráng biểu hiện bên ngoài ấy nhằm chứa đựng công năng là một đấu trường khắc nghiệt, tàn bạo với những trận đấu sinh tử của các đấu sĩ. Hình thức biểu lộ bên ngoài cho thấy rõ cấu trúc công năng liên đới; những hành lang giao thông theo phương ngang rõ ràng đã định hình cho những phân vị ngang trên mặt đứng và nhu cầu công năng đặt ra cho đấu trường là cấu trúc khán đài giật cấp đã đẩy hình thức công trình theo phương đứng làm nên vẻ đồ sộ, to lớn của nó. Hơn thế nữa, đó là sản phẩm của xã hội La mã đương thời, hay một nghĩa nào đó, nó là một xã hội La mã thu nhỏ, hoặc nó chính là biểu trưng sức mạnh của các chiến binh La mã, những người quen sống trong những cuộc chinh phục triền miên và đẫm máu. Nó sinh ra trong xã hội La mã, biểu hiện cho bản chất của con người La mã; đồng thời, nó tác động đến quan niệm, ý thức mang tính hiện sinh của con người thời đại đó. Cái hình hài ấy vừa biểu hiện những mối quan hệ ở cấp độ thông thường của một vật thể vật lý vừa biểu hiện những ý nghĩa tinh thầnquan hệ xã hội đương thời.
Hình 2. Nhà thờ Đức bà Paris
Hay ở nhà thờ Gothic (Hình 2) thời Trung đại, trên mặt đứng là sự phô diễn hệ kết cấu dạng cuốn bay, đầu cửa hình cung nhọn, kính màu,…Mặt đứng “gắn kết” với với hệ kết cấu mang lực hay hệ kết cấu cũng là thành tố góp phần diễn đạt mặt đứng. Motif cuốn cung nhọn được sử dụng rất nhiều, nhất là trên tháp chuông, làm tăng cảm giác vút cao cho công trình với hàm nghĩa hướng thượng vì “Chúa ở trên cao”. Hoặc nhu cầu cần ánh sáng trong nội thất, và ánh sáng được lấy qua các cửa sổ kính màu trên cao tạo thêm sự huyền ảo cho ý nghĩa tâm linh “Chúa đến từ ánh sáng”. Thêm nữa, những hoa văn trang trí trên các cửa sổ, nhóm tượng, tiểu tượng,…đều góp phần quan trọng làm định hình kiến trúc công trình. Tất cả chúng hỗn dung, đan cài với nhau và cùng diễn cảm, biểu đạt trên tổng thể cấu trúc nhà thờ Gothic.
Hình 3. Seagram Building
Hình 4. Mối nối duy lý 
Hoặc công trình dấu ấn của Chủ nghĩa Hiện đại, Seagram Building (Hình 3), 1954-1958, được thiết kế bởi Mies van der Rohe - một đại diện ưu tú của trào lưu này. Cái hình hài vật lý kia rất dễ nhận biết và phân biệt vì biểu hiện hình học cơ sở của nó; hình hộp chữ nhật, cấu tạo bằng kính-thép, gần như trống chân và…“chấm hết”. Cái hộp ấy “thuần khiết” và lạnh, nó xóa bỏ cảm xúc và từ chối “đối thoại”. Tuy vậy, một mặt, xét kỹ trên mặt đứng có một đặc điểm nổi bật; “một loạt các dầm thép chữ I được đưa ra phía ngoài mặt đứng, hoàn toàn không có giá trị gì về mặt kết cấu, nhưng nhờ đó đã biểu hiện được đặc điểm kết cấu công trình”[8]. biểu hiện đó cho thấy sự nhập nhằng trong quan hệ giữa hình thức - kết cấu - cấu trúc của mặt đứng. Xem ra Mies van der Rohe cũng “trang trí” đấy chứ! Mặt khác, nó mang tinh thần thời đại - tính duy lý trong quan niệm thiết kế. Dù là tác phẩm của Mies van der Rohe, song nó còn là biểu hiện của quan niệm xã hội lúc bấy giờ; sự tôn sùng công nghệ, quan niệm về giá trị và tính thẩm mỹ của cấu trúc. Nó là sản phẩm của thời đại, bao hàm cả nhận thức của con người và sự kết tinh của các quan hệ xã hội.

Hình 5. Chùa Một Cột - Việt nam
Đặc trưng một công trình cổ của Việt nam, chùa Một cột, 1049 – Lý Thái Tông (Hình 5), xét tương quan trong các mối quan hệ đó. Trước tiên, cái vật thể vật lý ấy biểu hiện qua hình hài một ngôi chùa được chống đỡ bởi một cái cột vươn lên từ hồ nước, trên cái cột ấy vươn ra các consol đỡ sàn, trên cái sàn ấy lại kiến tạo những cột, lan can, mái cong,…Đấy là những gì thuộc về hình thức biểu hiện bên ngoài với những quan hệ ràng buộc giữa cái hình đặc thù, hệ kết cấu giữ ổn định và công năng. Tuy nhiên, cái “hình” ấy lại biểu đạt cho những ý nghĩa tinh thần được cài đặt, ẩn dụ một cách khéo léo. Một “đóa hoa sen” vươn lên từ mặt nước, “thực ra là nhằm biểu thị cho sự thanh khiết. Mà sự thanh khiết chỉ là lớp “vỏ” để chỉ Đức Phật và học thuyết của Ngài”[4]. Và ngay khi được kiến tạo, nó trở thành một hình ảnh đẹp mang bản chất xã hội, vì nó biểu hiện cho quan niệm, triết lý và nhận thức của xã hội đương thời. Nó đại diện cho ý thức xã hội, quan niệm của người Việt nam; đồng thời, nó tác động lại những ý thức, quan niệm đương thời và cả xã hội ngày nay làm chúng ta cảm nhận nó bằng những ước lệ và sự ẩn dụ ngay trong ý niệm. Đây là công trình giàu tính nhân văn và giá trị biểu tượng của dân tộc ta.
Hình 7. Nhà ở Nam bộ - Việt nam
Hình 6. Nhà ở Bắc bộ - Việt nam
Còn với thể loại nhà ở dân gian Việt nam (Hình 6, 7), ta thấy hình thức mặt đứng có sự liên hệ chặt chẽ với hệ kết cấu. Và nhu cầu che mưa, chắn nắng nên ông cha ta đã xử lý không gian đệm (hàng hiên, hàng ba) rộng và thoáng đãng làm tác động đến cấu trúc đặc trưng ngôi nhà. Đó vừa là nhu cầu ứng phó với thời tiết, vừa là nhu cầu sử dụng đặc thù trong sinh hoạt thường ngày xoay quanh chuyện làng, chuyện nước,…sôi động, rôm rả! Hoặc hình ảnh đặc trưng của bức bình phong với những trang trí mang ý nghĩa diễn đạt tâm linh của gia chủ hay bàn thờ thiên ngự trị ngay chính trung tâm sân nhà,…Rõ ràng kiến trúc đã gắn kết chuyển tải những ý nghĩa vừa thuộc quan hệ vật chất, vừa thuộc nhu cầu tinh thần của con người trong đời sống xã hội.

Hình 8. Dây Shimenawa (Đền thờ Thần đạo)
Hình 9. Đền thờ Thần đạo - Nhật Bản
Quan sát đền thờ Thần đạo Nhật bản (Hình 9), hình thức biểu hiện cũng cho thấy mối quan hệ ràng buộc với hệ kết cấu của ngôi đền, những cấu kiện kiến tạo - trang trí trên mái với hai yếu tố chigikatsuogi hay sự hiện hữu của chiếc cột lớn trên mặt đứng,…là những mối quan hệ ở hình hài vật lý. Nhưng hơn hết ngôi đền còn là biểu tượng tâm linh của người Nhật thông qua tín ngưỡng Thần đạo (Shinto). Với họ, các kami ngự ở một thế giới riêng, thế giới của các thần linh khởi nguyên, cai quản mọi linh hồn dưới trần thế. Mối liên hệ giữa hai “thế giới” là ngọn núi cao, cây lớn hay vật thể thẳng đứng,…Để diễn đạt điều đó họ kiến tạo chiếc cột lớn ngay trên mặt đứng ngôi đền, kết hợp với hệ mái có các chigi hướng lên theo độ dốc của hệ vì biểu hiện hàm ý hướng thượng, liên kết con người - thiên nhiên - thần linh trong tư tưởng Thần đạo. Đồng thời, để chỉ rõ tính thiêng đó, người ta đánh dấu bằng một biểu trưng liên kết và tỏ ý kiêng kỵ thông qua sợi dây Shimenawa (Hình 8), một sự biểu đạt tượng hình gắn kết trên mặt đứng. Rõ ràng tất cả những biểu hiện vừa thuộc quan hệ vật chất, vừa thuộc biểu trưng tinh thần, vừa thuộc quan hệ ứng xử xã hội trong tín ngưỡng Thần đạo được dung hợp trên kiến trúc của ngôi đền[8].
Và, còn nhiều công trình khác nữa mà khi phân tích ta đều nhận ra sự hỗn dung từ sự tương tác của cấu trúc Vật lý – Tinh thần – Xã hội này,…sự minh chứng cho bản chất đa hợp của kiến trúc.
* * *
Như vậy, kiến trúc rõ ràng được cấu thành từ nhiều mối quan hệ phức tạp, mang trong nó những giá trị vật chất lẫn tinh thần, nó chuyển tải những giá trị nhân vănquan hệ xã hội ngoài giá trị vật chất cụ thể. Rõ ràng nó biểu hiện dung hợp các yếu tố vật thể lẫn phi vật thể trong quá trình tồn tại và điều đó thuộc về bản thể của nó; tức là những giá trị đó tồn tại và biểu hiện tính chất cùng với sự tồn tại của mặt đứng ngay từ lúc kiến trúc định hình. Trong tiến trình phát triển, những biểu hiện đó liên tục thay đổi theo từng giai đoạn bởi  chịu sự chi phối vào quan niệm, nhận thức của con người, sự phát triển của kỹ thuật xây dựng và vật liệu kiến tạo ở từng thời kỳ. Sự thay đổi này là tất yếu của quá trình phát triển, và theo đó kiến trúc ngày càng tiến triển bằng sự dung hợp các yếu tố mang tính thời đại và cả những nhân tố truyền thống, bản địa đặc trưng. Đó là bản chất, và rằng, kiến trúc là một thể đa hợp.
TP. Hồ Chí Minh,
Tháng 09 năm 2012


Tài liệu tham khảo
[1].      Cao Xuân Huy, Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 2003
[2].       Nguyễn Khởi, Bảo tồn và trùng tu các di tích kiến trúc, Nhà xuất bản xây dựng, Hà nội, 2002
[3].        Lê Thanh Sơn, Hiện tượng cộng sinh văn hóa giữa tính truyền thống và tính hiện đại trong kiến trúc Việt nam từ cuối thế kỷ XIX - giữa thế kỷ XX, Luận án tiến sĩ, TP.HCM, 2000
[4].     Lê Thanh Sơn, Kiến trúc & hiện tượng cộng sinh văn hóa, Trường đại học kiến trúc TP.HCM, Lưu hành nội bộ, 1999
[5].         Lê Thanh Sơn, Một số xu hướng kiến trúc đương đại nước ngoài, Trường đại học kiến trúc TP.HCM, Lưu hành nội bộ, 2001
[6].         Trương Quang Thao, Bản chất cộng sinh văn hóa của kiến trúc hay kiến trúc là gì ?, Hà Nội, 2001
[7].          Đoàn Khắc Tình, Giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật trong lý thuyết kiến trúc và design, Nhà xuất bản giáo dục, 1999
[8].          Và các nguồn – hình ảnh khác từ internet,…






Nhận xét

Bài đăng phổ biến